Đâu Là Đặc Điểm Của Lao Động Việt Nam Hiện Nay Là Gì Ví Dụ

Đâu Là Đặc Điểm Của Lao Động Việt Nam Hiện Nay Là Gì Ví Dụ

Tìm hiểu thông tin về tuyển dụng một nghề trong lĩnh vực kĩ thuật, công nghệ qua báo chí, người thân, Internet. Viết báo cáo: tên nghề, số lượng tuyển dụng, yêu cầu đối với người được tuyển dụng, vị trí việc làm, tiền lương.

Tìm hiểu thông tin về tuyển dụng một nghề trong lĩnh vực kĩ thuật, công nghệ qua báo chí, người thân, Internet. Viết báo cáo: tên nghề, số lượng tuyển dụng, yêu cầu đối với người được tuyển dụng, vị trí việc làm, tiền lương.

Người lao động phải tự mình thực hiện công việc và chịu sự quản lí của NSDLĐ

Trong khi các chủ thể giao kết hợp đồng ở các loại hợp đồng khác có thể tự mình thực hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc có thể ủy quyền cho chủ thể khác giao kết hoặc thực hiện hợp đồng thì trong hợp đồng lao động, NLĐ phải tự mình thực hiện công việc trong hợp đồng.

Đặc trưng này xuất phát từ bản chất của quan hệ hợp đồng lao động. Hợp đồng lao động thường được thực hiện trong môi trường xã hội hóa, có tính chuyên môn hóa và hợp tác hóa rất cao. Do đó, người lao động phải trực tiếp thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết, không được chuyển dịch vụ cho người thứ ba

NLĐ tự mình thực hiện công việc trong hợp đồng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện công việc đó, NLĐ phải chịu sự quản lí giám sát của NSDLĐ. Bởi tuy NLĐ tự mình thực hiện công việc nhưng hoạt động lao động của NLĐ không phải là hoạt động mang tính đơn lẻ cá nhân mà là hoạt động mang tính tập thể. Quá trình làm việc của NLĐ có sự liên quan đến các lao động khác. Chính vì vậy cần phải có sự quản lí của NSDLĐ. Hơn nữa, khi thực hiện công việc, NLĐ sẽ phải sử dụng máy móc, thiết bị tài sản của doanh nghiệp nên NSDLĐ phải có quyền quản lí đối với NLĐ. Đây là dấu hiệu quan trọng để nhận diện quan hệ lao động phát sinh trên cơ sở của hợp đồng lao động.

Đặc điểm của Quốc gia xuất khẩu ròng

Các quốc gia tham gia vào thị trường thương mại để mua và bán hàng hóa trên toàn cầu.

Khi tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của một quốc gia cao hơn tổng giá trị nhập khẩu, quốc gia đó có cán cân thương mại (Balance of trade) thặng dư.

Một quốc gia xuất khẩu ròng, theo định nghĩa, cán cân thương mại thặng dư, tuy nhiên, nó có thể bị thâm hụt hoặc thặng dư với từng quốc gia hoặc vùng lãnh thổ tùy thuộc vào loại hàng hóa và dịch vụ được giao dịch, tính cạnh tranh của các hàng hóa và dịch vụ này, tỉ giá hối đoái, mức chi tiêu của chính phủ, hay rào cản thương mại,…

Đối tượng của hợp đồng lao động

Căn cứ theo Điều 13 Bộ luật lao động 2019 quy định:

“Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.”

Chủ thể giao kết hợp đồng lao động gồm người lao động và người sử dụng lao động.

Hợp đồng lao động thực chất là hợp đồng mua bán sức lao động giữa người lao động và người có nhu cầu sử dụng sức lao động là NSDLĐ. Tuy nhiên, đây là hợp đồng mua bán đặc biệt. Bởi sức lao động là đối tượng mua bán của hợp đồng. Đây là một loại “hàng hóa” đặc biệt. Vì vậy có thể thấy đối tượng của hợp đồng lao động chính là việc làm.

Như vậy, để nhận diện có sự tồn tại của quan hệ lao động hay không, cũng như hợp đồng đó có phải là hợp đồng lao động hay không cần xác định trong quan hệ đó hay hợp đồng đó có “yếu tố việc làm” hay không. Yếu tố về công việc được nhận biết như công việc đó được thực hiện dưới sự chỉ dẫn và dưới sự kiểm soát của phía bên kia. Công việc có sự tương tác với công việc của NLĐ khác. Công việc tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định và có tính liên tục. Hợp đồng lao động là hình thức pháp lí của quan hệ lao động. Các bên giao kết hợp đồng lao động sẽ làm phát sinh quan hệ lao động.

Thời gian và tại địa điểm thực hiện hợp đồng

Hợp đồng lao động thường được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định thậm chí là không xác định. Bởi thực chất hợp đồng lao động chính là hợp đồng mua bán sức lao động. Tuy nhiên, tại thời điểm giao kết hợp đồng lao động chưa có sức lao động. Sức lao động chỉ có được thông qua quá trình lao động của NLĐ.

Như vậy, để có được hàng hóa sức lao động cần phải có một khoảng thời gian nhất định để NLĐ thực hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng. Chính bởi vậy, hợp đồng lao động bao giờ cũng được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Khi giao kết hợp đồng, các bên bao giờ cũng xác định khoảng thời gian thực hiện hợp đồng, có thể lâu dài hoặc có thể trong một thời gian nhất định tùy theo tính chất của công việc. Đây cũng là lí do để giải thích tại sao pháp luật thường phân chia loại hợp đồng lao động theo thời hạn của hợp đồng.

Trong hợp đồng lao động, các bên thường thỏa thuận để xác định rõ địa điểm thực hiện công việc. Tuy nhiên, trên thực tể thông thường địa điểm thực hiện công việc do NSDLĐ xác định. Bởi NSDLĐ lao động là người quản lí lao động đối với NLĐ. Đồng thời họ cũng chính là người có trách nhiệm phải đảm bảo các điều kiện lao động cho NLĐ.

Ví dụ về các Quốc gia xuất khẩu ròng

Saudi Arabia và Canada là những ví dụ về các quốc gia xuất khẩu ròng dầu mỏ vì họ có lượng dầu mỏ dư thừa và bán lại cho các nước khác không có khả năng đáp ứng nhu cầu năng lượng.

Một quốc gia có thể là quốc gia xuất khẩu ròng ở một khu vực nhất định, nhưng lại là quốc gia nhập khẩu ròng ở các khu vực khác.

Ví dụ, Nhật Bản là quốc gia xuất khẩu ròng các thiết bị điện tử, nhưng họ phải nhập dầu từ các nước khác để đáp ứng nhu cầu của mình. Mặt khác, Mỹ là quốc gia nhập khẩu ròng và do đó thâm hụt tài khoản vãng lai.

Xuất khẩu ròng là giá trị của tổng xuất khẩu của một quốc gia trừ đi giá trị của tổng nhập khẩu.

Xuất khẩu ròng được sử dụng để tổng hợp chi tiêu của một quốc gia hoặc tổng sản phẩm quốc nội GDP trong một nền kinh tế mở.

Nếu một quốc gia có đồng tiền yếu, xuất khẩu của quốc gia đó có tính cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế, điều này khuyến khích xuất khẩu ròng dương.

Ngược lại, nếu một quốc gia có đồng tiền mạnh, hàng xuất khẩu của nó đắt hơn hàng từ các nước khác và người tiêu dùng trong nước có thể mua hàng xuất khẩu từ nước ngoài với giá thấp hơn, điều này có thể dẫn đến xuất khẩu ròng âm.

Đặc điểm của hợp đồng lao động đó là sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng của các chủ thể. Bài viết này Luật Vitam sẽ tập trung phân tích, làm rõ đặc điểm cơ bản của hợp đồng lao động.

Hợp đồng lao động hình thành dựa trên gười lao động có nhu cầu làm việc và người sử dụng lao động có nhu cầu tuyển dụng lao động. Tuy nhiên, vì sức lao động là loại hàng hóa đặc thù, hơn nữa trong quan hệ lao động. Người lao động còn phải chịu sự quản lí và phụ thuộc vào NSDLĐ nên ngoài những đặc điểm chung đó, hợp đồng lao động còn có một số đặc điểm riêng sau đây:

Những thỏa thuận trong hợp đồng lao động trong giới hạn pháp lí nhất định

Bất cứ sự thỏa thuận nào cũng phải nằm trong khuôn khổ và sự điều chỉnh của pháp luật, hợp đồng lao động cũng vậy.

Quyền của NLĐ được pháp luật lao động quy định ở mức tối thiểu và nghĩa vụ của NLĐ được quy định ở mức tối đa.

Bên cạnh những giới hạn pháp lí đã được quy định trong pháp luật lao động, những thỏa thuận của các bên trong hợp đồng lao động còn bị chi phối bởi các quy định trong thỏa ước lao động tập thể (nếu có) của doanh nghiệp.

Quan hệ lao động không chỉ bao gồm quan hệ lao động cá nhân mà còn gồm cả quan hệ lao động tập thể. Những thỏa thuận tập thể khi đã đạt được (như thỏa ước lao động tập thể) sẽ được coi như là “luật” của doanh nghiệp Vì thế, về nguyên tắc, các thỏa thuận trong hợp đồng lao động phải phù hợp với các thỏa thuận đã đạt được trong thỏa ước lao động tập thể. Bởi vậy, những thỏa thuận trong hợp đồng lao động không chỉ giới hạn trong khung pháp lí do pháp luật quy định mà còn phải phù hợp, tương thích với thỏa ước lao động tập thể cũng như quy chế hợp pháp trong đơn vị.

Vậy là Luật Vitam đã cung cấp cho các bạn nhưng thông tin về đặc điểm của hợp đồng lao động. Hi vọng bài viết này sẽ giúp ích cho các bạn trong quá trình tìm hiểu vấn đề này. Hẹn gặp lại các bạn ở những bài viết tiếp theo!

Đối tượng lao động sư phạm là học sinh

GS.TS. Đinh Quang Báo - nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội nhấn mạnh điều này trong tham luận của mình tại Hội thảo khoa học Quốc tế "Chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong bối cảnh hiện nay: Xu hướng Việt Nam và thế giới".

GS.TS. Đinh Quang Báo phân tích, mục đích của lao động sư phạm là đào tạo thế hệ trẻ thành lực lượng lao động tiếp nối sự phát triển xã hội theo mô hình nhân cách mà xã hội yêu cầu ở từng thời kỳ phát triển.

Sức lao động của GV biểu hiện nhiều ở mặt hoạt động trí óc cho nên sự tái sản xuất sức lao động không chỉ biểu thị bằng sự hồi phục sức khỏe cơ bắp mà quan trọng là sự hồi phục năng lực hoạt động trí tuệ. Chống sự lão hóa trí tuệ là một mặt quan trọng mà những người sử dụng lao động GV cần đặc biệt quan tâm.

Đối tượng lao động sư phạm là học sinh. Công cụ chủ yếu của lao động sư phạm là nhân cách của người giáo viên; bằng chính nhân cách của mình, giáo viên tác động tích cực đến sự hình thành nhân cách của học sinh. Sản phẩm của lao động sư phạm là những nhân cách theo mô hình mà xã hội đòi hỏi ở giáo dục nhà trường.

Như vậy, trong lao động sư phạm, đối tượng lao động là con người, công cụ chủ yếu là con người, sản phẩm cũng là con người.

Cũng theo GS.TS. Đinh Quang Báo, lao động của nhà giáo biến con người sinh học thành con người xã hội, tức là thành những nhân cách, như là động lực có tính quyết định sự phát triển kinh tế xã hội. Nhân cách là hệ thống năng lực tinh thần và thể chất của con người. Hệ thống năng lực này là nguồn gốc tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội.

Yếu tố quan trọng bậc nhất trong cấu trúc nhân cách là trí tuệ, thể hiện ở trình độ tư duy, trình độ học vấn, năng lực giải quyết những vấn đề lý thuyết hay thực tiễn một cách sáng tạo.

Về phương diện kinh tế, trí tuệ được xem là tài nguyên quý giá nhất trong các nguồn tài nguyên của quốc gia. Một trong những người làm phong phú tăng thêm trữ lượng tài nguyên trí tuệ của quốc gia là các nhà giáo.

Có thể nói sản phẩm lao động của nhà giáo là loại sản phẩm cao cấp bậc nhất, gắn với tương lai xã hội. Trong một xã hội đang phát triển nhanh thì sản phẩm của giáo dục phải thường xuyên được nâng cấp chất lượng mới đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Và tất nhiên, những người làm ra các sản phẩm đó là giáo viên, phải không ngừng được bồi dưỡng, đào tạo lại.

Giáo viên không còn đóng vai trò truyền đạt kiến thức

GS.TS. Đinh Quang Báo nhấn mạnh, đáng chú ý là ngày nay, trong lao động của người giáo viên đang diễn ra những thay đổi rất cơ bản, đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực vươn lên để thích ứng. Trong quỹ thời gian của giáo viên phải có một tỷ lệ thích đáng dành cho việc học tập tự bồi dưỡng mới đáp ứng được những thay đổi về chức năng, nội dung, hình thức lao động.

Tương ứng với sự chuyển biến nhận thức về mục tiêu giáo dục (theo UNESCO) là: Học để biết ® học để làm ® học để tồn tại, cùng chung sống. Ngày nay, phương pháp dạy học đang chuyển từ kiểu dạy tập trung vào vai trò của giáo viên, hoạt động dạy sang kiểu dạy tập trung vào vai trò của học sinh và hoạt động học từ kiểu dạy thông báo - đồng loạt sang kiểu dạy hoạt động phân hóa.

Tức là giáo viên không còn đóng vai trò chỉ là người truyền đạt kiến thức mà là người gợi mở, hướng dẫn, tổ chức, cố vấn, trọng tài cho các hoạt động tìm tòi tranh luận của học sinh. Giáo viên giỏi là người biết giúp đỡ học sinh tiến bộ nhanh trên con đường học tập tự lực, kết hợp thành công việc giảng dạy tri thức với giáo dục giá trị và phát triển tư duy.

Công nghệ thông tin được áp dụng ngày càng rộng rãi trong quá trình dạy học, đem lại những khả năng mới, giúp giáo viên dễ dàng đưa những phần việc vốn chỉ thực hiện được ở ngoài lớp vào trong tiết học, biểu diễn trực quan cơ chế các hiện tượng, quá trình trong thế giới vi mô và vĩ mô, cung cấp một khối lượng lớn thông tin trong thời gian ngắn, xử lý nhanh những chuỗi số liệu phức tạp, làm giảm nhẹ lao động chấm bài kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.

Giáo viên phải làm chủ được các phương tiện công nghệ thông tin mới vận dụng được vào quá trình dạy học. Nếu không muốn bị tụt hậu, giáo viên phải sớm tìm hiểu tin học cơ sở, học hỏi việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.

"Lao động sư phạm là một loại lao động đặc biệt, để thích ứng với lao động này, sinh viên sư phạm khi còn ngồi trên ghế nhà trường phải chuẩn bị cho mình có được những phẩm chất và năng lực, thói quen phù hợp với lao động sau khi tốt nghiệp. Do đó, chuẩn đầu ra ngành Sư phạm đào tạo giáo viên phải hướng theo Chuẩn nghề nghiệp giáo viên" - GS.TS. Đinh Quang Báo.